Hàng nghìn hiện vật bằng đá có niên đại trên 300
năm, nằm rải rác tại địa bàn vẫn còn là một bí ẩn đối với giới nghiên
cứu khoa học khi tìm hiểu về giá trị về lịch sử, văn hóa, mỹ thuật, kiến
trúc…
Theo
thống kê, tỉnh Bắc Giang hiện có 46 lăng đá cổ, trong đó phần lớn tập
trung tại huyện Hiệp Hòa với 26 lăng, Việt Yên 11, Tân Yên 5. Những lăng
đá tiêu biểu như: Dinh Hương, Nội Dinh, Bầu Đá, Vân Cẩm, lăng họ Ngọ,
họ Trần…
Những bức tượng đá cổ với nét chạm khắc tinh xảo vẫn "trơ gan cùng tuế nguyệt"
“Trơ gan cùng tuế nguyệt”
Ở Hiệp Hòa (Bắc Giang)
có một “Bảo tàng đá” được xem là lớn nhất nước, tồn tại mấy trăm năm mà
vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt” trước thách thức thời gian. Đó là hệ thống
các lăng tẩm bằng đá- nơi an táng của những bậc tước hầu, quận công
trong các triều đại phong kiến xa xưa.
Mấy thế kỷ trôi qua, hệ
thống lăng đá ở Bắc Giang vẫn còn khá nguyên vẹn. Những bức tượng bằng
chất liệu đá xanh quy mô, bề thế hình người, voi, ngựa, sấu, nghê, chó…
được đục đẽo, chạm trổ một cách tinh xảo, công phu và bày đặt nghiêm
trang tầng tầng, lớp lớp theo phong cách đăng đối, đối xứng xung quanh
khu lăng mộ, khiến chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng như lạc bước vào cõi
đá của thế giới người xưa. Hầu hết các công trình lăng đá được xây dựng
từ thế kỷ thứ 17 - 18 dưới thời Lê Trung hưng. Kiểu kiến trúc điển hình
là phía ngoài lăng được xây tường bao quanh bằng đá ong, trong có bia
đá, xung quanh là tượng quan hầu võ tướng, phía trước có hồ nước tụ
thủy, cây cối thâm u, thường có mộ táng hợp chất kèm theo (Kiểu mộ ướp
xác, có thể giữ cho thi thể người chết còn khá nguyên vẹn trong một thời
gian dài.
Cổng “lăng” bằng đá với những bức phù điêu độc đáo còn sót lại.
Theo đó, thi hài được
ngâm vào dầu thông cho thơm và mặc rất nhiều quần áo đẹp có thêu hình
rồng phượng rồi đặt trong một cỗ quan tài bằng gỗ thông, loại gỗ có
hương thơm, rồi bỏ nhiều chè búp, hoa hòe, giúp cho xác ướp được thơm và
khô ráo…). Nhưng giá trị độc đáo nhất của khu lăng đá là nghệ thuật tạc
tượng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc Việt Nam.
Các đề tài thể hiện phong phú, trong đó có tượng voi ở nhiều tư thế
ngồi, đứng, quỳ, phục, vòi cuộn lại, cổ đeo chuông lớn. Tượng ngựa tạc
theo kiểu: yên cương, nhạc ngựa, lục lạc, ngò hoa, vải phủ, khăn thêu...
Tượng nghê và sấu được miêu tả rất có hồn; chó được miêu tả đơn giản
hơn, ít phức tạp hơn song không vì thế mà mất đi nét độc đáo riêng.
Quá khứ huy hoàng
Nằm trọn trong một khu
đồi cao ráo thuộc xã Đức Thắng, ba bề bốn bên là đồng ruộng, cảnh sắc
chất chứa nhiều nét huyền thoại u tịch, lăng đá Dinh Hương được xây dựng
thời Hậu Lê (năm 1727) dưới triều vua Lê Dụ Tông.
Theo dân gian truyền lại: Chủ nhân khu lăng đá này
một vị quan có nhiều công lao với triều đình nhà Lê. Hai lần được nhà
vua cử đi sứ phương Bắc. Năm 1740, dưới triều đại vua Lê Hiển Tông, vị
quan này cầm quân đi dẹp loạn ở các vùng thuộc đạo Kinh Bắc, Sơn Nam,
Hải Dương, năm 1749 ông mất. Khu lăng đá được chủ nhân tự lựa chọn, xây
dựng cho mình từ khi vẫn còn sống. Toàn bộ chất liệu bằng đá xanh, được
các hiệp thợ vùng Kinh Bắc đục đẽo một cách tinh tế với những hình thù,
họa tiết cầu kỳ, phong phú. Cấu trúc lăng được chia làm ba phần khá đồ
sộ và hoành tráng gồm: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần
bia đá ở bên phải. Phần mộ táng hình vuông, diện tích gần 100m2 với
tường vây bằng đá ong… Theo đánh giá đây là một trong những lăng đá
hoành tránh và đẹp nhất tại Bắc Giang.
Được xây dựng trước
lăng Dinh Dương, lăng họ Ngọ (thôn Thái Thọ, xã Thái Sơn) có niên đại
1697, đời vua Lê Hy Tông- nơi lưu giữ di hài Phương quận công Ngọ Công
Quế. (Lăng xây dựng khi ông vừa được nhà vua phong là: Đặc tiến kim tử,
vinh lộc đại phu, giữ chức phó tả thị nội thư, tả binh phiên, tư lễ
giám).
Theo các tư liệu lịch sử, Ngọ
Công Quế là bậc văn võ song toàn, tư cách khoan hòa độ lượng, với việc
nước thì tận tâm phụng sự, với quê hương ông hết lòng quan tâm giúp đỡ.
Toàn bộ kiến trúc ngoại thất của lăng được xây bằng chất liệu đá muối và
đá ong lấy ở núi IA cách đó khoảng 1,5 km. Trực tiếp Ngọ Công Quế thuê
các thợ đục đá giỏi nhất vùng về làm lăng mộ cho chính mình. Bố cục kiến
trúc theo hướng Nam,
hình chữ nhật với diện tích khoảng 400m2. Trên khu đất trước phần mộ là
hai dãy tượng chầu đặt theo lối đăng đối hai bên đường thần đạo: hai
con voi phục, hai cặp người dắt ngựa, hai con sấu bằng đá xanh. Phía sau
hương án là cổng vào phần mộ có mặt bằng 15,1 m x 12,5 m có tường đá
bao quanh cao 1,9 m. Trước phần mộ là một hương án để tế lễ, cạnh hương
án có hai con nghê ngồi chầu và ngẩng cao đầu. Hai bên hương án là hai
bàn đá dùng để đặt các đồ tế lễ. Trên nền cổng phần mộ chạm hai người
đứng hầu, trên cổng khắc chữ "Linh Quang Từ"…
Ngoài những lăng đá kể trên, huyện Hiệp Hòa còn nhiều lăng đá khá đẹp, độc đáo và hoành tráng khác như: lăng họ Bùi, lăng họ Hà, lăng họ Khổng, lăng họ Ngọ,…
Bao giờ lăng đá “thôi buồn”?
Thâm trầm, hoành tráng
và kỳ bí là những cảm giác của chúng tôi khi tiếp cận những khu lăng mộ
trên. Mấy trăm năm đã trôi qua song đến nay, những khu lăng đá này vẫn
là những bài toán chứa nhiều ẩn số đối với các nhà nghiên cứu lịch sử
văn hóa, những bí ẩn về “công nghệ” ướp xác, nghệ thuật tạo tác, ý nghĩa
tạo hình trong kiến trúc, tượng thờ… Tuy nhiên, tham quan một vòng qua
các lăng mộ ở đây, chúng tôi không khỏi xót xa cho những hiện vật đá nằm
trơ trọi giữa những khu đất bỏ hoang, cỏ dại mọc um tùm. Một cảm giác
lạnh lẽo, u vắng bao trùm trên các khu lăng mộ, hương khói tắt lạnh đã
lâu mà hậu duệ của các vị quan ấy cũng cũng chẳng thấy chạnh lòng? Được
biết, vài năm trước đây tỉnh Bắc Giang đã hỗ trợ kinh phí tu sửa, bảo vệ
các khu lăng đá này nhưng việc làm đó vẫn chỉ như “muối bỏ biển”, đến
nay nhiều công trình bị xuống cấp, xâm hại và bỏ hoang. Mộ số lăng không
còn tường bao bằng đá ong như cũ, nhiều lăng mộ, nhiều pho tượng bị phá
vì những lời đồn đại có vàng bên trong (lăng Dinh Hương, lăng Nội
Dinh...), nhiều lăng mộ bị đào bới để truy tìm đồ quý.
> Sở hữu một số
lượng lớn các lăng đá cổ và độc đáo vào bậc nhiều nhất nước hiện nay
nhưng hệ thống di sản kể trên chỉ tồn tại một cách lặng lẽ bên những
cánh đồng làng.
Tỉnh Bắc Giang hiện vẫn
chưa tìm ra một hướng đi cụ thể nào để đầu tư, quảng bá, thu hút du
khách đến tham quan hệ thống các di sản này, các đoàn du lịch chủ yếu
đến tự phát và nhỏ lẻ trong thời gian ngắn…
|
Chính những vị này, khi về già thường về quê chọn đất xây lăng mộ làm chỗ nghỉ vĩnh hằng cho mình, cũng là nơi
để dòng tộc thờ phụng. Vì vậy, khi xây dựng lăng tẩm cũng được chủ nhân
lựa chọn rất kỹ về phong thủy, phong cách nghệ thuật. Điều độc đáo nhất
của các lăng đá ở Bắc Giang là nghệ thuật điêu khắc được thể hiện qua
những tượng người, tượng thú, nhà bia - bia - cổng lăng - mộ - nhà mộ và
đồ thờ. Với những giá trị độc đáo về lịch sử, văn hóa, kiến trúc nghệ
thuật, hầu hết các lăng mộ đều đã được nhà nước xếp hạng di tích cấp
quốc gia. Đã có nhiều nhà nghiên cứu và du khách về đây tìm tòi, chiêm
bái và thưởng ngoạn hệ thống di tích độc đáo này. Mặc dù mang trên mình
những giá trị vô giá ấy nhưng đến nay các khu lăng đá này dường như vẫn
bị chìm sâu trong gấc ngủ dài mà chưa được đánh thức.
Sở hữu một số lượng lớn
các lăng đá cổ và độc đáo vào bậc nhiều nhất nước hiện nay nhưng hệ
thống di sản kể trên chỉ tồn tại một cách lặng lẽ bên những cánh đồng
làng. Tỉnh Bắc Giang hiện vẫn chưa tìm ra một hướng đi cụ thể nào để đầu
tư, quảng bá, thu hút du khách đến tham quan hệ thống các di sản này,
các đoàn du lịch chủ yếu đến tự phát và nhỏ lẻ trong thời gian ngắn…,
Tương lai, nếu biết khai thác thì đây sẽ là điểm đến đầy hấp dẫn đối với
du khách bốn phương. Hiện nay, tại khu trưng bầy ngoài trời của Bảo
tàng tỉnh Bắc Giang có trưng bày nhiều hiện vật đá được phục chế theo tỷ
lệ 1:1 so với các tượng đá ở lăng đá trên để phục vụ du khách tham
quan, nghiên cứu.
> Theo Tiến sĩ
Nguyễn Huy Hạnh, nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Giang, người có
nhiều năm nghiên cứu về những khu lăng đá này cho hay: Lăng tẩm ở Bắc
Giang là công trình kiến trúc dành để chôn cất những quan lại cao cấp
thời Lê- Trịnh và thường được xây dựng ngay trên quê hương của người đó.
Lăng đá được xây dựng
sớm nhất là lăng Đĩnh quận công Ngô Công Mỹ, xã Thái Sơn được xây dựng
vào năm Thịnh Đức thứ 3 (1655), lăng xây dựng muộn nhất là lăng Lan
trung hầu Nguyễn Hạnh Thông, xã Đông Lỗ niên đại năm Cảnh Trị thứ 9
(1771). Đây có thể xem là một “Bảo tàng đá” tiêu biểu cho nền nghệ thuật
xây dựng và điêu khắc lăng mộ đã phát triển đến đỉnh cao và giữ vị trí
quan trọng trong nền kiến trúc, điêu khắc nghệ thuật lăng tẩm Việt Nam.
|
Theo Kim Sa
Giadinh.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét